Tận dụng tối đa lợi ích từ EVFTA để thúc đẩy xuất khẩu hậu Covid-19
Số liệu của Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho thấy, sau hơn 1 năm thực thi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), thương mại Việt Nam – EU đã có những tín hiệu tích cực. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần phải lưu ý về vấn đề quy tắc xuất xứ để có thể tận dụng tối đa hiệp định này.
Trong 9 tháng đầu năm 2021, tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu giữa Việt Nam và EU đạt 41,29 tỷ USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, xuất khẩu đạt 28,85 tỷ USD, tăng 11,7%. Đây là kết quả rất có ý nghĩa trong bối cảnh dịch Covid-19 bùng phát gây ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động kinh tế, thương mại của các nước.
Tại hội thảo chuyên đề “Tận dụng cơ hội từ EVFTA để thúc đẩy xuất khẩu trong bối cảnh hậu Covid-19” do Bộ Công Thương chủ trì, diễn ra ngày 16/11, bà Trịnh Thị Thu Hiền – Trưởng phòng Phòng xuất xứ hàng hoá, Cục Xuất nhập khẩu – nhận xét, mặc dù hiệp định có hiệu lực khi đại dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp trên thế giới nhưng kim ngạch thương mại hai chiều của Việt Nam sang EU đều tăng trưởng hơn 18% so với trước khi hiệp định có hiệu lực. Bên cạnh đó, Hiệp định EVFTA cũng tạo ra môi trường thương mại đầu tư thông thoáng, thuận lợi cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư hai bên.
Những kết quả tích cực
Bà Trịnh Thị Thu Hiền cho rằng, hiện doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng tốt ưu đãi thuế quan. Kể từ khi khi EVFTA có hiệu lực đến ngày 4/6/2021, các cơ quan, tổ chức được ủy quyển cấp C/O mẫu EUR.1 đã cấp 180.551 bộ C/O mẫu EUR.1, với kim ngạch hơn 6,6 tỷ USD đi 27 nước EU. Ngoài ra, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa sang EU còn thực hiện tự chứng nhận xuất xứ cho 4.845 lô hàng với trị giá hơn 14,91 triệu USD được hưởng ưu đãi thuế quan theo EVFTA. Các mặt hàng được cấp C/O mẫu EUR.1 chủ yếu là giày dép, thủy sản, hàng dệt may, nông sản, sản phẩm từ ngũ cốc, hàng điện tử…
“EVFTA đã tạo cú hích lớn cho xuất khẩu của Việt Nam, giúp đa dạng hoá thị trường và mặt hàng xuất khẩu” – bà Hiền nhận xét.
Theo Cục Xuất nhập khẩu, thị trường đang xuất khẩu có nhiều lô hàng được cấp chứng nhận xuất xứ nhất là Đức, Bỉ, Pháp, Hà Lan. Đây đều là những thị trường có các cảng biển nhập khẩu và là điểm trung chuyển, trung tâm phân phối của châu Âu nên từ đây lan tỏa ra các thị trường khác tại châu Âu.
Trong đó, tính trong 10 tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu vào Đức là 1,12 tỷ USD; Hà Lan kim ngạch nhập khẩu đạt 1,04 tỷ USD; Pháp đạt kim ngạch nhập khẩu 739 triệu USD. Mặt hàng tận dụng tốt ưu đãi thuế quan được cấp C/O nhiều nhất là thủy sản, va li, túi xách, dệt may, giày dép, điện thoại di động, máy vi tính và linh kiện, sản phẩm gỗ.
Đại diện Cục Xuất nhập khẩu cho biết thêm, tỉ lệ xuất khẩu được cấp chứng nhận xuất xứ từ đầu năm đến nay sang EU đạt 20,37% nhưng không có nghĩa là gần 80% kim ngạch còn lại không được cấp chứng nhận xuất xứ hoặc chịu mức thuế quan cao. Bởi còn nhiều yếu tố khác chưa được tính toán đến như số lượng các công ty tự cấp chứng nhận xuất xứ khi đơn hàng có giá trị dưới 6.000 euro hoặc xin cấp chứng nhận khi đã tiến hành xuất khẩu.
Còn nhiều dư địa
Tại buổi hội thảo, bà Hiền cho biết thêm, bên cạnh những doanh nghiệp đã tận dụng tốt các ưu đãi thuế quan, một số doanh nghiệp hiện vẫn chưa hiểu rõ về các quy định để tận dụng tối đa ưu đãi từ hiệp định. Một trong những vấn đề nổi cộm là các quy định về xuất xứ trong Hiệp định EVFTA. Theo hiệp định, một số mặt hàng buộc phải có xuất xứ thuần tuý mới được hưởng ưu đãi thuế quan, chủ yếu là các sản phẩm nông sản như cây trồng, rau củ, hoa quả, vật nuôi, trứng, sữa, mật ong,…
Hoặc như đối với các sản phẩm may mặc, Hiệp định EVFTA quy định quy tắc xuất xứ phải được áp dụng từ vải trở đi. Điều này đồng nghĩa là các công đoạn từ dệt vải, cắt may phải được thực hiện tại các thành viên trong hiệp định thì mới được coi là có xuất xứ EVFTA và được cấp C/O. Quy định này khác với quy định trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN, khi xuất khẩu sang Singapore thì quy tắc xuất xứ chỉ cần là vải dù được nhập khẩu từ các nước khác ngoài khu vực ASEAN nhưng sau đó công đoạn cắt may được thực hiện tại Việt Nam thì hàng hóa đó vẫn được coi là có xuất xứ từ Việt Nam. Do đó, doanh nghiệp, nhà máy sản xuất cần phải tìm hiểu thật kỹ quy định xuất xứ hàng hoá của từng thị trường xuất khẩu, theo từng cam kết để đáp ứng, tận dụng các ưu đãi thuế quan.
Bên cạnh đó, các mặt hàng phía EU có nhu cầu và Việt Nam có thể đáp ứng chưa nhiều, năng lực cạnh tranh và mức độ tham gia sâu vào chuỗi giá trị của doanh nghiệp còn hạn chế. Hiện nay các doanh nghiệp vẫn chưa kết hợp được xuất khẩu với hợp tác đầu tư công nghệ cao để sản xuất, phân phối sản phẩm. Do đó, Bộ Công Thương đã trình Thủ tướng Chính phủ báo cáo về kết quả triển khai EVFTA thời gian qua cũng như đề xuất nhiều giải pháp để thúc đẩy việc thực thi đạt hiệu quả, trong đó chú trọng đẩy mạnh xúc tiến thương mại.
Ngoài ra, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực, tiếp cận các thông tin và chính sách ưu đãi, đổi mới cách thức sản xuất theo hướng bền vững… Tăng cường cung cấp thông tin về thị trường, có kế hoạch phối hợp quảng bá hình ảnh thương hiệu quốc gia, hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng quy tắc xuất xứ của các FTA, trong đó có EVFTA…
Nguồn: congthuong.vn