Xuất khẩu tôm năm 2021 dự kiến cán đích 3,9 tỷ USD
Dù chịu tác động bởi dịch Covid-19, nhưng Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) dự báo xuất khẩu tôm năm 2021 sẽ cán đích ở mức 3,9 tỷ USD, tăng 4% so với năm 2020.
Vẫn còn những lô hàng bị cảnh báo
Theo VASEP, giá trị xuất khẩu tôm có dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ trong tháng 10 và tháng 11/2021 sau khi sụt giảm đáng kể trong quý III/2021. Theo đó, giá trị xuất khẩu tôm trong tháng 11/2021 đạt 367 triệu USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2020. Lũy kế 11 tháng năm 2021, giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam đạt 3,5 tỷ USD, tăng 3% so với cùng kỳ năm 2020. Với những diễn biến khả quan, VASEP dự báo xuất khẩu tôm năm 2021 sẽ cán đích ở mức 3,9 tỷ USD, tăng 4% so với năm 2020 và năm 2022 sẽ đạt 4,3 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2021.
Về thị trường, 11 tháng đầu năm, giá trị xuất khẩu tôm sang Mỹ đạt 983,5 triệu USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm 2020, giữ vững vị trí là thị trường xuất khẩu lớn nhất của tôm Việt Nam. Xuất khẩu tôm sang Mỹ được kỳ vọng sẽ tăng mạnh vào năm 2022 khi nhu cầu của Mỹ tăng và Việt Nam chuyển sang trạng thái thích ứng linh hoạt với dịch Covid-19. Đáng chú ý, tôm của Việt Nam vào thị trường Mỹ ngày càng trở nên cạnh tranh hơn khi Ấn Độ cũng gặp nhiều rào cản do dịch Covid-19.
Mặc dù đạt được những kết quả khả quan, việc xuất khẩu tôm đối mặt với những rào cản nhất định. Theo Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và thủy sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT)), các thị trường nhập khẩu chính tôm của Việt Nam là: Bắc Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc.
Hiện có 416 cơ sở chế biến tôm được công nhận đủ điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm và trong Danh sách xuất khẩu sang các quốc gia, vùng lãnh thổ có yêu cầu lập danh sách và lô hàng được cấp Giấy chứng nhận thực phẩm thủy sản xuất khẩu bởi Cục Quản lý Chất lượng nông lâm sản và thủy sản.
Tính đến thời điểm hiện tại (năm 2021), có 53 lô hàng tôm bị cơ quan thẩm quyền nước nhập khẩu cảnh báo, trong đó đáng chú ý là cảnh bảo về các chỉ tiêu phosphate 25 lô (chiếm 47%), dịch bệnh 13 lô (chiếm 24,5%), vi sinh 5 lô (chiếm 9,4%), kim loại nặng 1 lô (chiếm 1,88%), ghi nhãn 1 lô (chiếm 1,88%).
Riêng về tồn dư hóa chất, kháng sinh cấm có 8 lô (chiếm 15,1%) giảm so với tỷ lệ cảnh báo năm 2020 đối với nhóm chỉ tiêu này (10 lô bị cảnh báo liên quan đến hóa chất, kháng sinh chiếm 28,3% tổng số lô hàng bị cảnh báo).
Cùng với đó, Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) cho biết tình trạng lạm dụng hóa chất, kháng sinh cấm (Ciprofloxacin, Oxytetracycline, Ormetoprim, Chlormphenicol,…) trong nuôi tôm thẻ chân trắng vẫn còn diễn ra ở một số địa phương.
Đồng thời, giá thành sản xuất tôm ở nước ta vẫn còn cao hơn so với các nước trong khu vực. Nguyên nhân là do thức ăn nuôi tôm vẫn đang chiếm tỷ lệ cao trong giá thành sản xuất (khoảng trên 65% giá thành nuôi tôm công nghiệp); chi phí con giống cao do phải nhập khẩu tôm bố mẹ; nhiều vùng nuôi thiếu điện phải sử dụng máy nổ để bơm nước, quạt khí, phát điện (chi phí cao gấp 2 lần so với sử dụng điện); giá cước vận chuyển vật tư, nguyên liệu cao.
Khai thác lợi thế từ thị trường FTA
Theo Tổng cục Thủy sản, sự thay đổi về quy định kiểm dịch đối với sản phẩm nhập khẩu ở nhiều quốc gia, những cảnh báo về an toàn thực phẩm. Một số thị trường nhập khẩu chính thủy sản của Việt Nam đã có những thay đổi trong chứng nhận an toàn thực phẩm, như Hàn Quốc, sản phẩm tôm phải đáp ứng quy định về xử lý nhiệt (tôm nấu chín) mới được miễn kiểm dịch. Tuy nhiên, thời gian xử lý nhiệt theo quy định của Hàn Quốc dài, ảnh hưởng không nhỏ đến màu sắc, mùi vị… của sản phẩm; thị trường Brazil quy định chế độ xử lý nhiệt khắt khe hơn rất nhiều so với hướng dẫn của Tổ chức Thú y thế giới.
Để khai thác tốt cơ hội thị trường và vượt qua thách thức, ông Phùng Đức Tiến- Thứ trưởng Bộ NN&PTNT- cho rằng, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm tôm thì năng suất và chất lượng là hai yếu tố then chốt. Vì vậy, các đơn vị, địa phương phải chú trọng các yếu tố nguyên liệu đầu vào đặc biệt là con giống, hạ tầng trong chuỗi sản xuất tôm.
Thị trường thuận lợi, giá tôm có xu hướng tăng cao là yếu tố quan trọng để ngành tôm Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu tôm tận dụng tốt cơ hội để nhanh chóng phục hồi sau đợt giãn cách xã hội kéo dài. Việt Nam đang tham gia 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, đây là cơ hội thuận lợi để nâng cao năng lực tổ chức sản xuất đảm bảo theo chuỗi, truy xuất được nguồn gốc với quy trình từ con giống, thức ăn chăn nuôi, thú y phòng bệnh, an toàn sinh học đến thu hoạch, sơ chế và chế biến phục vụ xuất khẩu.
Theo ông Phùng Đức Tiến, với các FTA mà Việt Nam tham gia sẽ là cơ hội thuận lợi nâng cao năng lực tổ chức sản xuất đảm bảo theo chuỗi; truy xuất được nguồn gốc với quy trình từ con giống, thức ăn chăn nuôi, thú y phòng bệnh, an toàn sinh học đến thu hoạch, sơ chế và chế biến phục vụ xuất khẩu. Trên cơ sở đánh giá chung về thị trường, các nhà sản xuất, doanh nghiệp chế biến chuẩn bị những giải pháp kỹ thuật và xúc tiến thương mại, tiếp cận thị trường một cách chủ động hơn.
Bà Lê Hằng- Phó Giám đốc Trung tâm VASEP.PRO (VASEP)- khuyến nghị, các doanh nghiệp thủy sản nói chung, ngành hàng tôm nói riêng cần chú trọng đảm bảo an toàn cho sản xuất. Việc này tốn nhiều công sức và chi phí nhưng là việc rất cần thiết. Song song đó, phải theo dõi diễn biến tình hình thị trường cũng như năng lực các quốc gia là đối thủ cạnh tranh để chủ động và bước đi phù hợp thúc đẩy nhanh nhất việc phục hồi sản xuất an toàn và tiến tới ổn định, phát triển bền vững.
Nguồn: congthuong.vn